Song Hye Kyo
- Chi tiết
- Được viết ngày Thứ tư, 31 Tháng 8 2016 19:05
- Cập nhật lần cuối ngày Thứ sáu, 28 Tháng 7 2017 13:55
- Chuyên mục: Hồ sơ sao
- Lượt xem: 1508
Song Hye Kyo (tiếng Hàn: 송혜교, phiên âm: Song Hye-gyo), sinh ngày 22 tháng 11 năm 1981 tại Dalseo, Daegu, Hàn Quốc, là một nữ diễn viên và người mẫu Hàn Quốc. Cô được biết đến qua các bộ phim như: “Trái tim mùa thu”, “Ngôi nhà hạnh phúc”, “Gió đông năm ấy”, “Hậu duệ của Mặt Trời”.
Song Hye Kyo
Thông tin cá nhân
Tên tiếng Hàn: 송혜교
Tên phiên âm: Song Hye-gyo
Tên tiếng Anh: Song Hye Kyo
Quốc tịch: Hàn Quốc
Ngày sinh: 22/11/1981 (thực tế), 26/02/1982 (khai sinh)
Nơi sinh: Dalseo, Daegu, Hàn Quốc
Chiều cao: 161 cm
Cân nặng: 45 kg
Nhóm máu: A
Cung hoàng đạo: Thiên Yết
Năng khiếu: Bơi lội, trượt tuyết, trượt băng, piano
Sở thích: Bơi lội, thời trang, trượt tuyết, trượt băng, piano
Học vấn: Đại học Sejong
Nghề nghiệp: Diễn viên, người mẫu
Công ty đại diện: United Artists Agency
Cảnh trong phim “Trái tim mùa thu”
Tiểu sử và sự nghiệp
Khi Song Hye-kyo sinh ngày 22 tháng 11 năm 1981 tại thành phố Daegu, cô từng bị ốm đến mức cha mẹ và các bác sĩ nghĩ rằng không thể qua khỏi. Vì sự hồi phục kỳ diệu của cô, cha mẹ đăng ký khai sinh cho cô là 26 tháng 2 năm 1982 (thay vì ngày sinh thực là 22 tháng 11 năm 1981).
Sau này, cha mẹ ly hôn và cô sống với mẹ. Hai mẹ con chuyển từ quê nhà Daegu đến quận Gangnam ở Seoul, ở đây cô được đào tạo về trượt băng nghệ thuật khi học tiểu học nhưng từ bỏ vào năm lớp 8. Dù cô tự nhận mình nhút nhát và hướng nội nhưng giáo viên thời trung học lại nhận xét cô có "tính cách hoà nhã, hoà đồng với bạn bè và tinh thần vui vẻ.
Cô bước chân vào làng giải trí từ năm 1996 sau khi giành giải Nhất trong cuộc thi tuyển người mẫu của một hãng đồng phục học sinh. Nhưng phải đến 4 năm sau, với bộ phim Trái tim mùa thu, Song Hye Kyo mới trở thành diễn viên hàng đầu tại làng phim xứ Hàn. Vẻ đẹp của cô trở thành sự ngưỡng mộ của khán giả toàn châu Á.
Năm 2000, Song Hye Kyo giành được thành công đầu tiên với Trái tim mùa thu. Đây cũng là bộ phim giúp cả dàn diễn viên nổi tiếng khắp Châu Á. Nhan sắc của Song Hye Kyo cũng đến thời kì tỏa sáng. Bờ môi mũm mĩm, sống mũi cao và làn da trắng hồng khiến vẻ đẹp của cô được coi như hoàn hảo.
Năm 2001, cô tham gia bộ phim Thần hộ mệnh cùng nam diễn viên đàn anh Kim Min Jong.
Năm 2003, Song Hye Kyo có một tác phẩm để đời cùng Lee Byung Hun mang tên All in. Đây cũng là bộ phim chắp cánh tình yêu cho hai người, nhưng đáng tiếc họ lại rẽ đôi 3 năm sau đó.
Năm 2004, Song Hye Kyo vào vai cô gái tinh nghịch, cá tính trong Ngôi nhà hạnh phúc. Cô dường như trẻ trung hơn cả khi mới vào nghề.
Cảnh trong phim “Ngôi nhà hạnh phúc”
Sau khi chia tay Lee Byung Hun, người đẹp tìm được tình yêu mới khi tham gia Thế giới chúng ta đang sống năm 2008. Mái tóc ngắn, trang phục có phần đơn giản và không make up khiến Song Hye Kyo bị chê nhiều về ngoại hình trong bộ phim này. Tuy nhiên, diện mạo mới cũng phần nào thể hiện sự cá tính của cô.
Năm 2009, Song Hye Kyo được coi là một trong những người đẹp đắt show quảng cáo nhất làng giải trí Hàn.
Năm 2010, Song Hye Kyo tấn công sang điện ảnh Trung Quốc với vai diễn vỏn vẹn 6 phút trong Nhất đại tông sư. Cô đóng vai người vợ của nam diễn viên Lương Triều Vỹ.
Năm 2012, Cô trở thành gương mặt quen thuộc trong nhiều quảng cáo và bộ ảnh trên các tạp chí lớn.
Năm 2013, Song Hye Kyo tham gia bộ phim Gió đông năm ấy, lại lần nữa khiến fan hâm mộ thổn thức.
Năm 2016, Song Hye Kyo trở lại màn bạc sau bao năm vắng bóng trong bộ phim Hậu duệ của Mặt Trời. Bộ phim thành công vang dội giúp cô trở lại đỉnh cao sự nghiệp.
Cảnh trong phim “Hậu duệ của Mặt Trời”
Tác phẩm điện ảnh
Phim truyền hình
- 2016 KBS2: Hậu duệ của Mặt Trời
- 2013 SBS: Gió đông năm ấy
- 2008 KBS2: Thế giới họ đang sống
- 2004 KBS: Ngôi nhà hạnh phúc
- 2004 SBS: Ánh sáng tình yêu
- 2003 SBS: Một cho tất cả
- 2001 MBC: Người quản lý khách sạn
- 2001 SBS: Thần hộ mệnh
- 2000 KBS: Host of Music Bank
- 2000 KBS: Trái tim mùa thu
- 1999 SBS: Sunpung Clinic
- 1999 SBS: Cô dâu đáng yêu
- 1998 SBS: Tôi là ai?
- 1998 SBS: A White Night 3.98
- 1998 SBS: Deadly Eyes
- 1998 SBS: Marching
- 1998 SBS: Pupil of Fear
- 1998 MBC: Six Siblings
- 1997 KBS: Dalkomhan Sinbu
- 1997 MBC: Jjack
- 1997 KBS: Áo cưới
- 1996 KBS: Thứ bảy hạnh phúc
Phim điện ảnh
- My girl and I (2005)
- Hwang Ji ni (2006)
- Make yourself at home (2008)
- Carmellia (2010)
- The Grand Master (2010)
- Today (A Reason to live) (2011)
- My Brilliant Life (2014)
- The Crossing (2014)
Giải thưởng
Năm |
Giải thưởng |
Hạng mục |
Tác phẩm |
Kết quả |
1996 |
SunKyung Smart Model Contest |
Grand Prize |
Không có |
Đoạt giải |
1998 |
SBS Drama Awards |
Diễn viên mới xuất sắc |
How Am I? |
Đoạt giải |
2000 |
KBS Drama Awards |
Giải diễn viên ăn ảnh |
Trái tim mùa thu |
Đoạt giải |
Giải thưởng diễn viên xuất sắc |
Đoạt giải |
|||
2001 |
37th Baeksang Arts Awards |
Diễn viên được yêu thích nhất (hạng TV) |
Đoạt giải |
|
Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất (TV) |
Đề cử |
|||
Gold Song Awards (Hong Kong) |
Tốp ngôi sao Hàn Quốc |
Không có |
Đoạt giải |
|
16th Golden Disk Awards |
Popular Music Video Award |
Kim Bum-soo's Once Upon a Day |
Đoạt giải |
|
SBS Drama Awards |
Top 10 ngôi sao |
Thần hộ mệnh |
Đoạt giải |
|
SBSi Award |
Đoạt giải |
|||
2002 |
CETV Awards |
Top 10 diễn viên ca sĩ châu Á |
Không có |
Đoạt giải |
2003 |
SBS Drama Awards |
Top 10 ngôi sao |
Một cho tất cả |
Đoạt giải |
Top Excellence Award, Actress |
Đoạt giải |
|||
2004 |
KBS Drama Awards |
Cặp đôi được yêu thích nhất với Rain (nghệ sĩ) |
Ngôi nhà hạnh phúc |
Đoạt giải |
Nữ diễn viên được yêu thích nhất(TV) |
Đoạt giải |
|||
Top Excellence Award, Actress |
Đoạt giải |
|||
2005 |
41st Baeksang Arts Awards |
Nữ diễn viên xuất sắc nhất (TV) |
Đề cử |
|
2006 |
42nd Baeksang Arts Awards |
Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất (Film) |
Cô nàng đáng yêu |
Đề cử |
43rd Grand Bell Awards |
Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất |
Đề cử |
||
2007 |
28th Blue Dragon Film Awards |
Nữ diễn viên xuất sắc nhất (TV) |
Nàng Hwang Jin Yi |
Đề cử |
6th Korean Film Awards |
Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất |
Đoạt giải |
||
2008 |
KBS Drama Awards |
Excellence Award, Actress in a Miniseries |
Thế giới họ đang sống |
Đề cử |
2011 |
12th Women in Film Korea Awards |
Nữ diễn viên xuất sắc nhất (TV) |
Lẽ sống |
Đoạt giải |
2013 |
49th Baeksang Arts Awards |
Nữ diễn viên xuất sắc nhất (TV) |
Gió đông năm ấy |
Đề cử |
7th Mnet 20's Choice Awards |
20's Drama Star - Female |
Đề cử |
||
8th Seoul International Drama Awards |
Outstanding Korean Actress |
Đề cử |
||
6th Korea Drama Awards |
Daesang (Grand Prize) |
Đề cử |
||
2nd APAN Star Awards |
Top Excellence Award, Actress |
Đề cử |
||
Daesang (Grand Prize) |
Đoạt giải |
|||
SBS Drama Awards |
Best Couple with Jo In-sung |
Đề cử |
||
Top 10 Stars |
Đoạt giải |
|||
Top Excellence Award, Actress in a Miniseries |
Đoạt giải |
|||
2016 |
52nd Baeksang Arts Awards |
Nữ diễn viên xuất sắc nhất (TV) |
Hậu duệ của Mặt Trời |
Đề cử |
Nữ diễn viên được yêu thích nhất(TV) |
Đoạt giải |
|||
Ngôi sao toàn cầu iQiYi |
Đoạt giải |
|||
APAN Star Awards 2016 |
Best Couple (with Song Joong Ki) |
Đoạt giải |
||
Nữ diễn viên xuất sắc nhất |
Đề cử |
|||
Korean and Popular Culture and Arts Awards |
Presidential Awards |
Đoạt giải |